KHÔNG GIAN SÁNG TẠO VĂN HÓA DÂN GIAN ĐÔ THỊ: KẾT NỐI BẢN SẮC VỚI SÁNG TẠO TRONG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tác giả: TS. Trịnh Đăng Khoa
Bài đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam 2025: “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025)”
TÓM TẮT NỘI DUNG
Bài viết “Không gian sáng tạo văn hóa dân gian đô thị: Kết nối bản sắc với sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh” tập trung vào mối quan hệ giữa di sản văn hóa dân gian và sáng tạo đô thị trong bối cảnh phát triển công nghiệp văn hóa. Tác giả nhận định rằng quá trình đô thị hóa nhanh khiến nhiều giá trị dân gian bị gián đoạn, trong khi nhu cầu kết nối giữa truyền thống – sáng tạo – phát triển bền vững trở nên cấp thiết. Trên cơ sở lý thuyết “truyền thống qua sáng tạo” (Hobsbawm, 2011) và quan điểm “bảo tồn động” của UNESCO (2005), bài viết đề xuất mô hình “Không gian sáng tạo văn hóa dân gian đô thị” như một giải pháp chiến lược cho TP.HCM.
Về lý luận, mô hình được xây dựng dựa trên nhận thức rằng văn hóa dân gian không chỉ là ký ức quá khứ mà là nguồn lực đổi mới trong xã hội hiện đại. Không gian sáng tạo được hiểu là thiết chế liên ngành – nơi giao thoa giữa bảo tồn, sáng tạo và kinh tế văn hóa. Về thực tiễn, bài viết lựa chọn Đình Thần An Khánh (TP.Thủ Đức) làm điểm thí điểm mô hình, vì đây là di tích còn duy trì nghi lễ truyền thống, có vị trí thuận lợi và cộng đồng dân gian gắn bó.
Mô hình AK-UCSFC (An Khanh Urban Creative Space for Folk Culture) gồm bốn không gian mở: (1) Trình diễn – lễ hội (tổ chức nghi lễ, nghệ thuật dân gian); (2) Sáng tạo – sản xuất (xưởng thiết kế sản phẩm dân gian ứng dụng, số hóa 3D); (3) Truyền thông – giáo dục (lớp học, workshop, thư viện số, bảo tàng mini); (4) Kinh tế sáng tạo (du lịch văn hóa, chợ phiên, thương hiệu sản phẩm số).
Phương thức vận hành mô hình theo hướng liên ngành – liên kết – liên thế hệ, với cơ chế đối tác công – tư – cộng đồng, kết hợp các trường đại học, nghệ nhân, doanh nghiệp sáng tạo, cùng ứng dụng công nghệ số (AR, VR, thư viện mở, dữ liệu cộng đồng). Từ đó, không gian sáng tạo dân gian trở thành thiết chế công nghiệp văn hóa mới – vừa bảo tồn, vừa sản xuất và lan tỏa giá trị văn hóa.
Tác giả đề xuất các giải pháp triển khai: (1) thí điểm tại Đình An Khánh; (2) xây dựng chương trình “Sáng tạo truyền thống” trong chiến lược công nghiệp văn hóa TP.HCM; (3) thành lập trung tâm hỗ trợ sáng tạo dân gian; (4) mở rộng hợp tác quốc tế và xã hội hóa nguồn lực; (5) thúc đẩy chuyển đổi số di sản.
Kết luận, Không gian sáng tạo văn hóa dân gian đô thị là mô hình kết nối giữa di sản – cộng đồng – sáng tạo – kinh tế, giúp TP.HCM khẳng định bản sắc trong tiến trình trở thành đô thị sáng tạo đặc trưng văn hóa dân gian của khu vực Đông Nam Á.
TS. Trịnh Đăng Khoa
Liên hệ: khoadhvh@gmail.com nếu bạn cần đọc toàn văn bài viết.
