KHUNG NĂNG LỰC TRONG ĐÀO TẠO VĂN HÓA, NGHỆ THUẬT: GỢI Ý TIÊU CHÍ ĐẶC THÙ CHO BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Tác giả: TS. Trịnh Đăng Khoa, ThS. Nguyễn Thị Phà Ca, ThS. Nguyễn Thị Kim Long
Bài viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Bộ VHTTDL 2025: “Bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và du lịch trên toàn quốc”
TÓM TẮT NỘI DUNG
Bài tham luận trình bày tính cấp thiết của việc xây dựng khung năng lực đặc thù cho đào tạo nhân lực văn hóa, nghệ thuật (VH,NT) nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo tiếp cận năng lực và phù hợp bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong khi các lĩnh vực khác đã có chuẩn chương trình và khung năng lực, đào tạo VH,NT vẫn thiếu bộ tiêu chí riêng, dẫn đến khó khăn trong xác định chuẩn đầu ra, kiểm định chất lượng và bảo đảm tính ứng dụng của chương trình đào tạo (CTĐT).
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Bài viết dựa trên hệ thống văn bản pháp lý hiện hành (TT12/2017, TT17/2021, TT01/2024, TT14/2024, QĐ 1982/QĐ-TTg) và tham chiếu các khung năng lực quốc tế của OECD, UNESCO, WEF, ACCS, AQRF. Nhóm tác giả tiến hành khảo sát tại bốn cơ sở đào tạo VH,NT ở TP. Hồ Chí Minh (Trường Đại học Văn hóa, Nhạc viện, Trường Trung cấp Múa, Trường Sân khấu – Điện ảnh) với 168 mẫu hợp lệ (127 sinh viên, 41 giảng viên/cán bộ quản lý). Phương pháp phân tích gồm thống kê mô tả, so sánh khoảng cách giữa mức độ quan trọng và mức độ đáp ứng năng lực.
2. Kết quả chính:
Nhóm tác giả đề xuất Khung năng lực VH,NT gồm 3 nhóm với 12 năng lực, bao gồm:
(1) Nhóm năng lực cốt lõi (sáng tạo – đổi mới, tư duy phản biện, chuyên môn đặc thù, năng lực số);
(2) Nhóm năng lực chức năng/chuyên môn mở rộng (quản trị dự án, kết nối cộng đồng, giao tiếp liên văn hóa, hợp tác quốc tế, khai thác nguồn lực);
(3) Nhóm năng lực hành vi và minh chứng nghề nghiệp (đạo đức nghề nghiệp, linh hoạt – học tập suốt đời, tạo lập sản phẩm nghề nghiệp).
Kết quả khảo sát cho thấy tất cả 12 năng lực được đánh giá rất quan trọng (trung bình 4.10–4.52/5), nhưng mức độ đáp ứng thực tế còn thấp (3.65–4.20/5), thể hiện khoảng cách cần cải thiện. Năm năng lực có khoảng cách lớn nhất là: giao tiếp liên văn hóa & ngoại ngữ chuyên ngành, sáng tạo – đổi mới, hợp tác quốc tế, năng lực số, tư duy phản biện. Đáng chú ý, giảng viên/cán bộ quản lý đánh giá mức độ đáp ứng của người học thấp hơn đáng kể so với sinh viên, phản ánh sự chênh lệch trong nhận thức và tiêu chuẩn nghề nghiệp.
Phân tích định tính cho thấy: giảng viên ưu tiên năng lực cảm thụ, đạo đức và tư duy nghề nghiệp; trong khi sinh viên chú trọng kỹ năng thực hành, kỹ năng mềm và phát triển cá nhân.
3. Kết luận và kiến nghị:
Nghiên cứu khẳng định sự cần thiết xây dựng khung năng lực VH,NT quốc gia nhằm làm cơ sở cho việc thiết kế, đánh giá và kiểm định CTĐT. Các cơ sở đào tạo cần rà soát, tích hợp 12 năng lực này vào chuẩn đầu ra; chú trọng năng lực số, sáng tạo, giao tiếp liên văn hóa và hợp tác quốc tế; tăng cường mô hình học tập trải nghiệm, dự án nhóm, workshop. Cơ quan quản lý cần cụ thể hóa tiêu chí đặc thù trong kiểm định giáo dục VH,NT, gắn với Khung trình độ quốc gia Việt Nam (VQF) và Khung tham chiếu ASEAN (AQRF).
Về lâu dài, việc thiết lập khung năng lực quốc gia cho VH,NT sẽ góp phần nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh và vị thế của nhân lực VH,NT Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
TS. Trịnh Đăng Khoa, ThS. Nguyễn Thị Phà Ca, ThS. Nguyễn Thị Kim Long
Liên hệ: khoadhvh@gmail.com nếu bạn cần đọc toàn văn bài viết.
